59 lượt xem
Nấm Vân Chi là một loại nấm dược liệu có thể được tìm thấy phổ biến trên thế giới. Nó được sử dụng nhiều thế kỷ ở Châu Á như y học tự nhiên. Những nghiên cứu khoa học đã chứng minh lợi ích của nó. Nấm Vân Chi có khả năng tăng cường hệ thống miễn dịch. Ngoài ra nấm này còn có lợi ích sức khỏe, chống nhiễm trùng và giúp bệnh nhân ung thư.
Ở Nhật Bản, từ năm 1970, Nấm Vân chi đã được chứng minh có khả năng kéo dài thời gian sống thêm 5 năm hoặc hơn cho các bệnh nhân ung thư thuộc nhiều thể loại: Ung thư dạ dày, ung thư đại tràng, ung thư vòm họng, ung thư thực quản, ung thư phổi và ung thư vú (P.M.Kidd, 2000).
Polysaccharid này cũng có tác dụng kéo dài thêm thời gian sống ít nhất là 5 năm cho các bệnh nhân ung thư thực quản. PSP cũng có tác dụng cải thiện sức khỏe, giúp giảm đau và tăng cường khả năng miễn dịch ở 70 –97 các bệnh nhân ung thư dạ dày, thực quản, ung thư phổi, ung thư buồng trứng và cổ tử cung (P.M.Kidd, 2000).
Nghiên cứu thực hiện bởi Tsang và cộng sự trên 34 bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn tiến triển cho kết quả là sau 28 ngày điều trị bằng PSP, số lượng tế bào máu, hàm lượng các kháng thể của những người được điều trị đều tăng cao hơn so với những người không được điều trị (K.W.Tsang et al., 2003). Đặc biệt ở những người được điều trị, sự tiến triển của bệnh đã được làm chậm lại một cách đáng kể.
Kết quả nghiên cứu do nhóm của tiến sỹ Kenyon ở trung tâm nghiên cứu điều trị lâm sàng Dove (Winchester, London) trên 30 bệnh nhân ung thư thuộc nhiều dạng khác nhau chỉ ra rằng điều trị bằng bột nghiền từ sinh khối nấm Vân chi làm giảm mạnh mẽ hoạt tính của enzym telomerase (một enzym thiết yếu giúp các tế bào ung thư chống lại quá trình “tự chết”).
Vì vậy, nghiên cứu cho thấy điều trị bằng nấm Vân chi đặc biệt vẫn có tác dụng với các trường hợp ung thư giai đoạn 3 và 4, khi mà các liệu pháp hoá học và phóng xạ đã không còn tác dụng.
Bản chất, cơ chế tác động của các hoạt chất trong nấm Vân chi đối với ung thư hiện vẫn đang được rất nhiều nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau (hóa sinh, miễn dịch, y học, dược học…) quan tâm nghiên cứu và ngày càng nhiều các phát hiện mới được công bố. Tiềm năng phòng chống và điều trị ung thư của nấm Vân chi là rất lớn và rất đáng lưu ý.
Năm 1997, R.A. Collins và Ng.T.B. (1997) thuộc Đại học Hồng Kông công bố kết quả nghiên cứu về tác dụng chống lại virus HIV typ 1 của các polysaccharid từ nấm Vân chi. Ngay sau đó, nhiều nhà nghiên cứu khác đã tiến hành các thử nghiệm sử dụng nấm Vân chi trong điều trị bệnh nhân AIDS.
Tiêu biểu phải kể đến là nghiên cứu của Marijke Pfeiffer trên một nhóm bệnh nhân HIV dương tính ( M.Pfeiffer, 2001). Các bệnh nhân này được điều trị bằng Coriolus MRL, một dược phẩm chế xuất từ nấm Vân chi, kết hợp với liệu pháp châm cứu và dùng thảo dược; một số có dùng thêm HAART, một loại thuốc chống AIDS.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 3 – 4 tháng điều trị, sức khỏe của các bệnh nhân đều được cải thiện, biểu hiện như tăng cân, cảm thấy khỏe khoắn hơn, giải tỏa ức chế tâm lý. Đặc biệt số lượng virus trong cơ thể họ đều giảm một cách đáng kinh ngạc (từ vài chục nghìn xuống vài nghìn) và số lượng các tế bào trình diện kháng thế CD-4 đều tăng.
Sau thời gian điều trị các bệnh nhân đều khỏi hoặc thuyên giảm hẳn các triệu chứng hệ quả của AIDS như ỉa chảy, viêm phế quản, đau tim, viêm dây thần kinh, nhiễm khuẩn, nhiễm nấm, vv…
Một số có thể ngừng không cần điều trị với HAART và có thể quay lại với cuộc sống bình thường, chơi thể thao, làm việc trở lại, … M. Pfeiffer (2001) đã xây dựng một phác đồ điều trị khá hiệu quả cho các bệnh nhân HIV dương tính.
Một nghiên cứu đáng lưu ý khác do nhóm của G. Rotolo (1999) thực hiện cũng chứng minh tác dụng điều trị các biểu hiện thứ cấp trong sự phát triển bệnh ở các bệnh nhân AIDS. Các bệnh nhân đều trên 35 tuổi, HIV dương tính, được điều trị bổ sung bằng chế phẩm từ nấm Vân chi.
Kết quả cho thấy sau 15 ngày điều trị với hàm lượng chế phẩm sử dụng là 3g/ngày, số lượng các tế bào bạch cầu trong cơ thể các bệnh nhân đều tăng lên khoảng 27 so với các trường hợp không được điều trị, và con số này giảm xuống còn 14,1 nếu lượng chế phẩm sử dụng cho điều trị được giảm đi một nửa.
Sau 45 ngày điều trị kết hợp cả hai chế độ, số lượng bạch cầu trong cơ thể các bệnh nhân tăng 45,2. Từ các kết quả này tác giả khuyến cáo việc sử dụng chế phẩm từ nấm Vân chi như một liệu pháp chống bệnh AIDS và đề nghị nghiên cứu sâu hơn về bản chất tác dụng của nấm đối với sự tăng số lượng bạch cầu.
Hiện nay các nghiên cứu về tác dụng của nấm Vân chi trong phòng chống virus HIV và bệnh AIDS vẫn đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Các nhà khoa học chủ yếu tập trung vào các cơ chế tác động của các hoạt chất trong nấm để từ đó đề xuất những phương pháp điều trị thích hợp.
Nấm Vân chi rõ ràng là một loại nấm dược liệu có nhiều đặc tính dược lý ưu việt và rất đáng quan tâm. Tiềm năng sử dụng nấm Vân chi trong điều trị lâm sàng, đặc biệt với các bệnh hiểm nghèo như ung thư, AIDS là rất lớn và cần được đi sâu khai thác.
Một điều đáng lưu ý là việc nuôi trồng và sản xuất dược liệu từ nấm này không hề tốn kém , rất phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển, trong khi đây lại là một loại nấm có hiệu quả y dược cao.
Vì vây, việc phát triển sản xuất dược phẩm từ nấm Vân chi có ý nghĩa kinh tế – xã hội, góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cộng đồng, đồng thời mở ra một hướng đi mới cho các ngành Công nghiệp dược phẩm và Công nghệ sinh học.
Tác dụng dược lý của nấm Vân chi chủ yếu dựa trên nền tảng là khả năng làm tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể, nhờ hoạt tính của các hợp chất chứa trong nấm.
Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nấm Vân chi lên khả năng miễn dịch của cơ thể người và tất cả các công trình đều có kết quả khẳng định tác dụng tăng cường miễn dịch của nấm này. Theo các kết quả nghiên cứu, trong nấm có chứa các hợp chất polysaccharid liên kết với protein với rất nhiều ưu điểm dược lý và chính các polysaccharid này quyết định tác dụng tăng cường miễn dịch của nấm.
Bên cạnh các polysaccharid là các thành phần chính quyết định tác dụng dược lý của nấm Vân chi, trong nấm còn chứa nhiều loại enzym như SOD (với tác dụng nêu ở trên), cytochrome P-450, một thành phần quan trọng trong việc khử độc các chất được nhập vào tế bào, và các chất trao đổi bậc hai có tác dụng ức chế thrombin, chống quá trình đông tụ máu.